Kỷ niệm ngày mất Hàn Mặc Tử 11/11/1940
MỐI TÌNH
THI SĨ HÀN - MỘNG CẦM
Bài thơ TRĂNG VÀNG TRĂNG NGỌC - Hàn Mặc Tử
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò...
Bao giờ đậu trạng vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.
Không, Không, Không! Tôi chẳng bán hòn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là trăng của Rạng Ngời.
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Ca khúc HÀN MẶC TỬ
Trần Thiện Thanh phổ nhạc
Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng, tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò.
Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
Lầu Ông Hoàng đó thuở nào trăng Hàn Mặc Tử đã qua
Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, bờ cát dài thêm hoang vắng
Tiếng chim kêu đau thương, như nức nở dưới trời sương
Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người
tìm về những đêm buồn
Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến
Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phế nhân
Tiếc thay cho thân trai một nửa đời chưa qua hết
Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã vội tan
Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tang thương,
mà khổ đau niềm riêng.
Hàn Mặc Tử xuôi về quê cũ, dấu thân nơi nhà hoang
Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi
Tình đã lỡ xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi
Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi
Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn gầy đón chân chàng đến
Người xưa nào biếtt, chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa
Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ
Khóc thương thân bơ vơ, cho đến một buôỉ chiều kia
Trờì đất như điên cuồng khi hồn phách vút lên cao
Hàn Mặc Tử nay còn đâu?
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng.
Chuyện tình Hàn Mặc Tử - Mộng Cầm tại Lầu Ông Hoàng
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (1942-2005) còn có tên Anh Chương, là người sinh ra lớn lên tại Phan Thiết và thành danh tại Sài Gòn; ông là một nhạc sĩ nổi tiếng trước 1975. Trong hàng trăm ca khúc trữ tình của ông, ca khúc Hàn Mặc Tử là dấu ấn lớn trong sự nghiệp sáng tác. Ca khúc Hàn Mặc Tử là một câu chuyện tình rất đẹp, rất bi thương của một nữ sĩ đồng hương Mộng Cầm với thi nhân Hàn Mặc Tử. Lẩn khuất trong từng giai điệu, từng ca từ dường như ông đã ký thác tâm sự lòng mình vào trong nỗi nhớ da diết, nỗi đau vô bờ bến của thi nhân Hàn Mặc Tử…
Mộng hay thực về cuộc tình Hàn Mặc Tử với Mộng Cầm
Hơn 70 năm trôi qua kể từ ngày thi nhân bất hạnh Hàn Mặc Tử qua đời ở tuổi 28 bởi căn bệnh phong quái ác tại Quy Nhơn, câu chuyện tình thực hay mơ của Hàn Mặc Tử với Mộng Cầm luôn được các nhà báo, nhà văn khai thác ở nhiều khía cạnh khác nhau. Cũng có thể vì lời đồn đại lưu truyền: năm xưa lên Lầu Ông Hoàng ngắm trăng, xung quanh là nghĩa địa, bãi tha ma nên khi trú mưa, do mả đất người mới chôn xuất hiện ma trơi (lân tinh) như sao rơi khiến Hàn Mặc Tử bị nhiễm mà phát bệnh cùi... Người xưa từng có câu nói nổi tiếng: Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận, chuyện ma ở đất Bình Thuận đến nay vẫn nhiều vô số kể. Hơn nữa, ngày nay khách du lịch lên đồi Bà Nài sẽ nhìn thấy khu nghĩa địa bên trái Tháp Chăm, chủ yếu bằng mả đất, sau này thời Mỹ và sau giải phóng mới có mả xây gạch đá, vôi vữa. Nhưng ngày xưa, tìm đâu ra một ngôi mộ xây cất hoành tráng có thể trú mưa?
Vô hình chung "người tình" nữ sĩ Mộng Cầm trở thành một nguyên nhân gây nên điều bất hạnh cho Hàn thi sĩ dù không hữu ý. Sau đó, vì muốn bảo vệ cuộc sống riêng tư và hạnh phúc riêng của mình, nên bà đã trả lời trên một tờ báo sau ngày Hàn Mặc Tử mất 20 năm (1961) về câu chuyện ngày xưa, đã gây nên một làn sóng phản đối trên thi đàn, văn đàn kể cả những bạn thơ và những người thân hữu nhất. Suốt một thời gian khá dài sau ngày giải phóng đất nước, căn cứ theo sách báo để lại mà người đời thêu dệt lên vô vàn chuyện thực hư về "nàng thơ" của Hàn Mặc Tử, mặc dù trong số những người viết, họ chưa bao giờ gặp bà Mộng Cầm. Nghi án trên văn đàn ngày trước không chỉ có một thi nhân ẩn danh tên T.T.Kh mà còn thêm một nghi án: Mộng Cầm có phải là người yêu của Hàn Mặc Tử hay không?
Hết ở Phan Thiết, bà vào sống với con ở Sài Gòn, bà rất ít tiếp xúc người bên ngoài nhất là những nhà báo, hay ai đó hỏi chuyện cũ, bà trả lời đại khái, chung chung... Dễ có mấy thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử, yêu luôn cả nàng thơ Mộng Cầm với giai thoại rất đẹp vì sự hiện diện về Mộng Cầm, về Nghệ, về Lầu trăng, Lầu Ông Hoàng trong thơ ông để lại đời sau. Cuối cùng thì bà cũng đã mang theo bí mật qua thế giới bên kia vào ngày 23/7/2007, thọ 91 tuổi…
Nữ sĩ Mộng Cầm
Tên thật là Huỳnh Thị Nghệ, sinh vào tháng 5/1917, gốc người Nghệ An, quê quán ở vùng Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Theo các tài liệu để lại, thì Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm quen biết nhau qua thơ văn. Đó là khoảng năm 1934, khi Hàn Mặc Tử rời Quy Nhơn vào Sài Gòn phụ trách trang văn chương cho các tờ “Trong khuê phòng”, “Công Luận”, “Sài Gòn”.
Thỉnh thoảng, Hàn Mặc Tử có nhận được những bài thơ ký tên là Mộng Cầm từ Phan Thiết gửi vào. Thư đi tin lại, rồi hẹn hò, lãng mạn để rồi một ngày cuối tuần năm 1936, chàng đi tàu lửa ra Phan Thiết tìm nàng. Mộng Cầm là cháu gọi thi sĩ Bích Khê bằng cậu, nhân vậy mà sau này mới có tình bạn thắm thiết giữa Bích Khê và Hàn Mặc Tử. Trong bài phỏng vấn đăng trên tạp chí Phổ thông số 63, ra ngày 15/8/1961, bà Mộng Cầm đã cho rằng chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử “chỉ là mối tình văn thơ”. Bà xác nhận, có đi chơi trên Lầu Ông Hoàng với Hàn Mặc Tử gặp một trận mưa lớn, hai người vào nấp mưa ở một nghĩa địa. Ngày nay, nguyên nhân bệnh phong, y học hiện đại đã chứng minh Mộng Cầm là vô can.
Bà kể tiếp: “Về đến Phan Thiết, tôi đưa Hàn Mặc Tử đến trường Hồng Đức, cậu Bích Khê tôi dạy ở đó. Ở đó suốt buổi sáng chủ nhật, chiều anh đáp chuyến tàu suốt về Sài Gòn. Sau ngày ấy, cậu tôi bảo tôi ra dạy ở trường Hồng Đức, do vậy mà Hàn Mặc Tử ra vào thường xuyên. Thứ bảy nào anh cũng có mặt ở Phan Thiết, chiều chủ nhật lại vào Sài Gòn trong hai năm 1934 - 1935 và vài tháng đầu năm 1936 trước khi Hàn Mặc Tử ra Huế thăm người trong mộng Hoàng Cúc – “Đây Thôn Vỹ Dạ” rồi lâm bệnh quay vào Quy Nhơn chữa trị đến khi trút hơi thở sau cùng.
Trong một dịp thứ bảy đi chơi Lầu Ông Hoàng, anh đã thổ lộ mối tình với tôi. Tôi có trả lời anh: “Chắc là không thể đi đến chỗ trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng”. Anh hỏi lý do, tôi viện lẽ gia đình anh theo đạo Công giáo, nhà tôi theo đạo Phật... Tuy vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật một hai năm như thế. Trong thời gian này, có nhiều lần Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng Ngãi thăm nhà, và trong nhiều bức thư anh có đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả lời thư, nhưng luôn tìm cách từ chối”.
Nhà văn Trần Thanh Mại, bạn thân của Hàn Mặc Tử trong cuốn sách “Hàn Mặc Tử” xuất bản năm 1942: “Ấy là câu chuyện một đôi trai tài gái sắc yêu nhau, câu chuyện muôn đời ấy mà! Người con trai là Hàn Mặc Tử, người con gái, ta cứ theo nhà thi sĩ mà gọi là Mộng Cầm đi, mặc cái tên thực của họ. Hai bên đã thề nguyện cùng nhau những lời mà ta hiểu là thiết tha đằm thắm lắm. Thường thường thì họ hay gặp nhau ở hai tỉnh: Quy Nhơn và Phan Thiết. Họ đưa nhau đi chơi bờ biển, họ đi viếng các danh lam thắng cảnh, nhất là Lầu Ông Hoàng. Rồi họ xa nhau. Họ nhớ nhau, và tặng ảnh cho nhau. Họ coi như một cặp vợ chồng chưa cưới”.
Những ngày dài nằm chữa bệnh, Hàn Mặc Tử đã sáng tác nhiều bài thơ đau đớn đầy nước mắt và mối tình này như: “ Muôn năm sầu thảm” đã kêu tên nàng một cách thảm thiết:
Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi.
Bài “Phan Thiết Phan Thiết”, nhắc kỷ niệm xưa về Lầu Ông Hoàng:
Ta lang thang tìm tới chồn lầu Trăng
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
Ôi trời ơi! là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi.
Cha của Mộng Cầm là Thị độc Học sĩ Huỳnh Quang Long không gặp thời trên con đường hoạn lộ, nên suốt mười mấy năm nhận một chức quan rất nhỏ, hết Quảng Ngãi đày ra Nghệ An rồi Thanh Hóa, Quảng Bình và mất năm 1926. Gia đình bà Nghệ phải theo mẹ về Quảng Ngãi một thời gian rồi lên tàu vào Phan Thiết sống nhờ gia đình người cậu ruột là thi sĩ Bích Khê. Huỳnh Thị Nghệ biết làm thơ từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường Ecole Plein Exerna Phan Thiết. Năm cô lên 16 tuổi, đã có thơ đăng ở báo Công Luận và báo Sài Gòn với bút hiệu Mộng Cầm như bài "Vịnh Lầu Ông Hoàng":
Nước nước non non một cõi này
Lâu đài ai dựng tháp ai xây.
Sương dầm nắng dãi lờ gan đá
Gió dập mưa dồn tủi phận cây.
Tuồng thế tang thương bao lớp sóng
Cuộc đời thành bại mấy chòm mây
Đường lên cõi phúc tìm đâu thấy
Thấy cảnh đau lòng khách tình say.
Bà kể lại, khoảng một tháng sau khi bài thơ được đăng, bà nhận được một bức thư gửi từ Sài Gòn của một người không quen biết, nhưng lại chứa đựng những tình cảm dạt dào khiến bà vừa mừng, vừa lâng lâng cảm giác. Bà đâu biết rằng, đó chính là những dòng chữ vướng nợ thi nhân như một thứ định mệnh của cuộc đời bà với một mối tình đầu. Thư đi, thư lại càng khiến bà tò mò thêm về anh chàng mang tên Lệ Thanh, Phong Trần, Hàn Mặc Tử. Thời gian trôi qua, Mộng Cầm chờ kết quả thi Primaire nên theo người cậu làm công việc phát thuốc, chăm sóc bệnh nhân ở một trạm xá ngoài Mũi Né. Tình cờ một lần, Mộng Cầm đọc tờ báo Sài Gòn của một bệnh nhân đem đến có dòng nhắn tin: “Mộng Cầm em ở đâu, cho tôi biết địa chỉ - Hàn Mặc Tử”. Suốt đêm, Mộng Cầm trằn trọc suy nghĩ không ngủ được. Cuối cùng con tim đã mách bảo bà viết thư cho Hàn Mặc Tử. Đúng một tuần lễ sau, Hàn Mặc Tử đi xe lửa ra Phan Thiết. Từ Phan Thiết, đón ghe chèo ra Mũi Né tìm bà.
Bà đã kể lại: “Nghe báo có khách ở Sài Gòn đến tìm, dù đoán chắc chắn là anh ấy nhưng khi cầm tấm thiếp tôi không khỏi lặng người xúc động. Trên người vẫn khoác chiếc áo choàng trắng của bệnh viện, tôi băng vội qua mấy gian nhà. Người thanh niên đang đứng đợi dưới mái hiên, dáng người dong dỏng cao, bận bộ đồ tuýt-xo com-lê trắng, hoàn toàn khác với hình dung của tôi. Anh không táo tợn như tôi nghĩ. Anh chỉ nhỏ nhẹ hỏi: “Cầm đấy ư? Tôi đi ghe suốt từ tối đến giờ mới tới”. Cả hai chúng tôi đều lúng túng, không ai nới với ai câu nào, mãi cho đến khi cậu tôi mời vào phòng khách tiếp chuyện”. Mộng Cầm làm thơ rất hay, trong bài thơ “Chan chứa” có nhắc nhiều đến những kỷ niệm của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”, mà bà ví là “xuân mỗi tuần” khi xin phép cậu lên ga Phan Thiết cuối tuần đón Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn ra thăm. Bà viết tâm sự trong bài thơ “Chan chứa” thay lời kết cuộc tình:
Nếu anh đếm được những vì sao
Thì hiểu em yêu đến bậc nào
Tinh tú trên trời không đếm được
Tình yêu càng với lại càng cao.
Cả năm chỉ có một lần xuân
Nhưng với lòng em xuân mỗi tuần
Thơ thẩn tâm hồn hoa nở nhụy
Cạn dòng tám sự được bao lần.
Em cứ tưởng rằng anh với em
Như hình với bóng dưới màn đêm
Hoàng hôn đã khóc niềm chung thủy
Đau đớn tình anh khăng khít thêm.
Cho nên không thể nói không yêu
Mà nói rằng yêu, yêu rất nhiều
Trời đất ngập tràn thơ vĩnh biệt
Lòng em chan chứa biết bao nhiêu.
TÓM TẮT.
Báo chí một thời từng ví nhạc sĩ Đặng Thế Phong (1918-1940) là Mozart của nền âm nhạc Việt Nam, mặc dù tác phẩm âm nhạc của ông để lại cho cuộc đời này chỉ đếm vỏn vẹn trên đầu ngón tay của… một bàn tay. Nhiều người lại so sánh Đặng Thế Phong giống thi sĩ Hàn Mặc Tử đến lạ lùng cũng bởi sự tài hoa, đoản mệnh. Ông còn giống Hàn Mặc Tử bởi những mối tình thủy chung đến lạ kỳ.
- Thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940) bị bệnh cùi nặng nhưng vẫn được Mộng Cầm bầu bạn, chăm sóc tận tình , sống thọ hơn nhạc sĩ Đặng 4 năm.
- Còn nhạc sĩ Đặng , cũng được một người yêu tên Tuyết , một mối tình lớn và duy nhất trong đời , chăm sóc ông trong những ngày ông bị bệnh lao nặng và đến lúc qua đời .
Chính người con gái đó đã làm tâm hồn nhạc sĩ Đặng Thế Phong dậy sóng và đi vào những bài tình ca bất hủ mà ông để lại trong 24 năm của kiếp người.
Cùng với Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan trong nhóm “Bàn thành Tứ hữu ở Bình Định”, nhà thơ Chế Lan Viên viết:
Thật vậy, nhà thơ Hàn Mặc Tử cùng với nhạc sĩ Đặng Thế Phong là hai hiện tượng đặc biệt trên bầu trời thơ – nhạc, hai thiên tài của Thi ca và Âm nhạc Việt Nam của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
PHẠM VŨ
(Tham khảo: Tài liệu trên Sách báo và Internet)
**
SẦU THU
Có gì hiu hắt lắng tâm tư
Sầu thương như ướt đẫm sương mù
Nhìn mưa tơi tả trên cành lá
Tháng mười mưa mãi, gió hoang vu
Thu ở đâu rồi thu dấu yêu
Bỗng dưng nhung nhớ úa trong chiều
Có vạt nắng tàn che ngõ vắng
Cho lòng mang nặng nỗi cô liêu
Thu đến rồi đi, thu hững hờ
Hồn thu vương vấn lá tương tư
Tàn phai sắc thắm heo may lạnh
Lá vàng úa rụng, chiều bơ vơ
Thu hỡi, thu ơi - Thu có nghe
Tình thu lờ lững đến bao giờ
Ước ao tình mãi xanh muôn thuở
Đừng như Thu vàng võ, ảo mờ...
Phạm Thị Minh-Hưng
Nhận xét
Đăng nhận xét