Năm ngoái con ngựa Giáp Ngọ, người viết tìm thấy khá nhiều tài liệu liên quan đến “horse” để tham khảo, năm kế tiếp sau con ngựa là con dê, muốn tìm chữ “goat” coi bộ hơi hiếm, thôi thì có bao nhiêu xài bấy nhiêu vậy bạn nhá.
Goat mà không phải dê.
Khi bạn dùng cellphone “text” hỏi ai “How are you”, có bao giờ bạn nghe người đó trả lời “I feel goat” chưa? Người đó dùng một chữ viết gộp lại (acronym) với bạn đấy. Trong trường hợp này “goat” là “g.o.a.t.”, gộp tắt của 4 chữ “greatest of all time”, đại khái có nghĩa là “khỏe chưa từng thấy” chớ không phải “tôi cảm thấy dê” (Hả? Cái gì?). Hóa ra nó chẳng dính líu gì đến con dê cả. Chữ viết gộp G.O.A.T trở nên phổ thông kể từ khi ca sĩ hát nhạc rap nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ có nghệ danh Eminem hay tục danh Slim Shady (tên thật Marshall Bruce Mathers III) dùng trong một bài hát của anh có cùng tên với những câu mở đầu là:
Khi bạn dùng cellphone “text” hỏi ai “How are you”, có bao giờ bạn nghe người đó trả lời “I feel goat” chưa? Người đó dùng một chữ viết gộp lại (acronym) với bạn đấy. Trong trường hợp này “goat” là “g.o.a.t.”, gộp tắt của 4 chữ “greatest of all time”, đại khái có nghĩa là “khỏe chưa từng thấy” chớ không phải “tôi cảm thấy dê” (Hả? Cái gì?). Hóa ra nó chẳng dính líu gì đến con dê cả. Chữ viết gộp G.O.A.T trở nên phổ thông kể từ khi ca sĩ hát nhạc rap nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ có nghệ danh Eminem hay tục danh Slim Shady (tên thật Marshall Bruce Mathers III) dùng trong một bài hát của anh có cùng tên với những câu mở đầu là:
I’m a goat
and for those of y’all who don’t know what a goat is
it means the greatest of all time
and I consider myself one of those
so thank you very much, here it goes!
(khỏi cần dịch bạn cũng biết nó có nghĩa gì rồi, phải không ạ?)
and for those of y’all who don’t know what a goat is
it means the greatest of all time
and I consider myself one of those
so thank you very much, here it goes!
(khỏi cần dịch bạn cũng biết nó có nghĩa gì rồi, phải không ạ?)
Các album nhạc rap của Eminem là The Slim Shady LP, The Marshall Mathers LP và The Eminem Show đều là những thành công vang dội và đã mang lại cho Eminem 9 giải Grammy. Năm 2002, Eminem trở thành rapper đầu tiên đoạt giải Oscar cho bộ phim anh tham gia đóng vai chính với bài hát Lose Yourself. Sau khi tạm rời xa sân khấu vào cuối đợt tour năm 2005, Eminem đã cho ra album thứ 5 của mình là Relapse vào ngày 19 tháng Năm năm 2009, đánh dấu bước đầu trong sự trở lại của anh. Tính đến đầu 2011, Eminem đã bán được gần 90 triệu album khắp thế giới, và hơn 41 triệu album tính riêng tại Hoa Kỳ, trở thành rapper có số lượng album bán chạy nhất trong lịch sử. Eminem được các độc giả của tạp chí Vibe bình chọn là “the best rapper alive”. Tính đến cuối năm 2011, Eminem đã giành được 13 giải Grammy trong số 38 đề cử.
Cỏ râu dê.
Ngắm tấm hình này, bạn có thấy loại hoa xinh đẹp không. Hoa từng chùm trắng muốt nở bung có những sợi tua như lông măng. Đó là hoa dại mà người Việt mình gọi là cỏ râu dê, một thứ bụi cây thảo mộc giàu dược tính. Thật tội nghiệp, hoa đẹp thế mà bị mang tên xấu. Tên khoa học là Filipendula-ulmaria và các tên tiếng Anh dễ thương như meadowsweet, Queen of the Meadow, Pride of the Meadow, Meadow-Wort, Meadow Queen, Lady of the Meadow, Dollof, Meadsweet, và Bridewort. Nó có mùi thơm ngọt ngào nồng nàn làm sảng khoái tinh thần được mọi người ưa chuộng, kể cả nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhất. Hoa cỏ râu dê phơi khô được dùng làm chất xông hương (potpourri) để trong nhà thờ, phòng cô dâu… và được sử dụng như một loại hương liệu trong thực phẩm. Trong y học truyền thống Âu châu, cỏ râu dê được dùng để điều trị bệnh nhức đầu, viêm khớp, bệnh gút, nhiễm trùng dạ dày, hen suyễn và nóng sốt.
Ngắm tấm hình này, bạn có thấy loại hoa xinh đẹp không. Hoa từng chùm trắng muốt nở bung có những sợi tua như lông măng. Đó là hoa dại mà người Việt mình gọi là cỏ râu dê, một thứ bụi cây thảo mộc giàu dược tính. Thật tội nghiệp, hoa đẹp thế mà bị mang tên xấu. Tên khoa học là Filipendula-ulmaria và các tên tiếng Anh dễ thương như meadowsweet, Queen of the Meadow, Pride of the Meadow, Meadow-Wort, Meadow Queen, Lady of the Meadow, Dollof, Meadsweet, và Bridewort. Nó có mùi thơm ngọt ngào nồng nàn làm sảng khoái tinh thần được mọi người ưa chuộng, kể cả nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhất. Hoa cỏ râu dê phơi khô được dùng làm chất xông hương (potpourri) để trong nhà thờ, phòng cô dâu… và được sử dụng như một loại hương liệu trong thực phẩm. Trong y học truyền thống Âu châu, cỏ râu dê được dùng để điều trị bệnh nhức đầu, viêm khớp, bệnh gút, nhiễm trùng dạ dày, hen suyễn và nóng sốt.
Horny goat weed.
Horny goat weed, Cỏ sừng dê là một loại thảo dược có tên khoa học là Epimedium, với lá được dùng làm thuốc. Có tới 63 loài cỏ sừng dê được gọi bằng cái tên kỳ cục là “dâm dương hoắc” (yin yang huo) trong y học Trung Quốc. Nó còn có các tên Anh ngữ khác là barrenwort, bishop’s hat, fairy wings, rowdy lamb herb, randy beef grass.
Horny goat weed, Cỏ sừng dê là một loại thảo dược có tên khoa học là Epimedium, với lá được dùng làm thuốc. Có tới 63 loài cỏ sừng dê được gọi bằng cái tên kỳ cục là “dâm dương hoắc” (yin yang huo) trong y học Trung Quốc. Nó còn có các tên Anh ngữ khác là barrenwort, bishop’s hat, fairy wings, rowdy lamb herb, randy beef grass.
Chi Dâm dương hoắc là một chi thực vật thuộc Họ hoàng mộc. Chi này có khoảng 63 loài, phần lớn đều là đặc hữu của miền nam Trung Hoa, với một số loài phân bố xa tận châu Âu. Chi này có một số loài dâm dương hoắc có tính chất kích thích tình dục và được sử dụng làm thuốc. Cây này có nhiều loài khác nhau đều được dùng làm thuốc. Người ta dùng kéo cắt hết gai chung quanh biên lá, cắt nhỏ như sợi tơ to, rây sạch mảnh vụn rồi dùng. Người ta cũng dùng rễ và lá, cắt hết gai chung quanh rồi dùng mỡ dê, đun cho chảy ra, gạn sạch cặn, cho Dâm dương hoắc vào, sao qua cho mỡ hút hết vào lá, lấy ra ngay, để nguội là được. Hoặc rửa sạch lá, xắt nhỏ, phơi khô, sao qua, nếu tẩm rượu trước khi sao qua càng tốt.
Horny goat weed được sử dụng để chữa trị đau khớp, viêm xương khớp, mệt mỏi tinh thần và thể chất, mất trí nhớ, huyết áp cao, bệnh tim, viêm phế quản, gan bệnh, HIV / AIDS, bại liệt, chứng rối loạn máu gọi là giảm bạch cầu mãn tính, nhiễm vi khuẩn, loãng xương, và được dùng như một loại thuốc bổ. Cỏ sừng dê cũng được dùng cho các trục trặc hoạt động tình dục bao gồm cả rối loạn cương dương (ED) và xuất tinh ngoài ý muốn. Nó cũng được sử dụng để khơi dậy ham muốn tình dục.
Goatee (râu dê).
Người Việt mình hay bảo “nam tu nữ nhũ” với ý nói râu tiêu biểu cho phái nam và “núi đôi” tiêu biểu cho phái nữ. Nhưng đối với loài dê thì dê cái, dê đực gì cũng đều có râu cả.
Người Việt mình hay bảo “nam tu nữ nhũ” với ý nói râu tiêu biểu cho phái nam và “núi đôi” tiêu biểu cho phái nữ. Nhưng đối với loài dê thì dê cái, dê đực gì cũng đều có râu cả.
Râu cũng có nhiều thứ râu, cũng phải được chăm sóc o bế cắt tỉa gọn ghẽ mới đẹp. Râu để mọc bừa bãi trông bê bối không hấp dẫn tí nào, nhất là râu dê luôn dính liền với ý nghĩa không tốt. Nam diễn viên Brad Pitt 46 tuổi bắt đầu “nuôi” râu từ tháng 9 năm 2013 tới nay bị khách hâm mộ chê xấu, nhưng chàng có lý do chính đáng: chuẩn bị đóng phim mới trong vai đại tá Percy Harrison Fawcett, nhà thám hiểm người Anh đã mất tích ở Amazon vào năm 1925 trong một chuyến đi tìm kiếm một nền văn minh cổ đại.
Scapegoat: Dê tế thần
Dê tế thần theo nghĩa đen dĩ nhiên là một con dê bị dùng làm lễ vật tế thần. Thần thoại Hy lạp, La mã ghi lại Zeus- Jupiter chúa tể các vị thần, lúc sinh ra bú sữa dê pha với mật ong. Khi tế thần người ta phải dâng dê bò “barbecue” nguyên con, chắc là sau đó mọi người sẽ đánh chén. Vào thời cổ La Mã, trong lễ hội Lupercalia cử hành vào ngày 15 tháng Giêng đầu năm, các thầy tế dâng lên thần linh một con dê và một con chó để cầu cho mưa thuận gió hòa và mọi người được sạch tội. Da dê sau đó được chia ra từng mảnh nhỏ để các chàng trai mang trong mình như lá bùa giúp mùa màng tươi tốt. Phụ nữ La Mã cũng tìm đủ cách để chạm được tay vào miếng da dê tế thần vì họ tin tưởng rằng làm như vậy sẽ sinh nở dễ dàng hơn. Vì vậy, sau hội Lupercania, nhiều đôi trai gái nên duyên nhờ miếng da dê.
Dê tế thần theo nghĩa đen dĩ nhiên là một con dê bị dùng làm lễ vật tế thần. Thần thoại Hy lạp, La mã ghi lại Zeus- Jupiter chúa tể các vị thần, lúc sinh ra bú sữa dê pha với mật ong. Khi tế thần người ta phải dâng dê bò “barbecue” nguyên con, chắc là sau đó mọi người sẽ đánh chén. Vào thời cổ La Mã, trong lễ hội Lupercalia cử hành vào ngày 15 tháng Giêng đầu năm, các thầy tế dâng lên thần linh một con dê và một con chó để cầu cho mưa thuận gió hòa và mọi người được sạch tội. Da dê sau đó được chia ra từng mảnh nhỏ để các chàng trai mang trong mình như lá bùa giúp mùa màng tươi tốt. Phụ nữ La Mã cũng tìm đủ cách để chạm được tay vào miếng da dê tế thần vì họ tin tưởng rằng làm như vậy sẽ sinh nở dễ dàng hơn. Vì vậy, sau hội Lupercania, nhiều đôi trai gái nên duyên nhờ miếng da dê.
Trong Thiên Chúa Giáo, hình ảnh con chiên, con dê rất gần gũi với người Do Thái từ mấy ngàn năm nay. Đức chúa Giêsu chào đời trong máng cỏ tại một hang có nhiều dê, chiên, lừa… thở hơi ấm. Ngoài ra, hình ảnh con chiên, con dê hy sinh, nhận lãnh làm của đền tội cho dân Do Thái không một lời than van thực ra là hình ảnh của chúa Giêsu gánh nhận trên vai mọi tội lỗi của nhân loại, như lời tiên tri Isaia đã nói trước 700 năm: “Người đã gánh mọi tội ác, mọi yếu đuối trên mình”. Cũng chính vì sự so sánh này mà hàng ngày các giáo dân thường cầu nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng tôi…”
Trong nghi thức tôn giáo Do Thái cổ xưa, vào Ngày Chuộc Tội (Day of Atonement, Yom Kippur), vị tư tế sẽ sát tế “con dê cho Chúa” làm lễ tạ tội cho toàn dân (con dê tạ tội). Sau một vài nghi thức thánh hiến trên bàn thờ, xác con dê tế hiến được đem ra ngoài trại xa mà đốt đi. Kế đến, người ta dẫn con dê thứ nhì tế hiến cho quỉ Azazel tới. Vị tư tế đặt hai tay lên đầu con dê này và “bàn giao” tất cả tội lỗi của toàn dân cho nó, dĩ nhiên là oan, nên người Việt mình còn gọi con dê tế thần là “oan dương”. Xong lễ, con dê này bị dắt vào sa mạc bỏ lạc lõng đói khát, số phận của con dê gánh tội coi như đã được định đoạt.
Scapegoat, Dê tế thần theo nghĩa bóng.
Danh từ “scapegoating” dùng để chỉ sự đổ tội cho người khác thay vì chấp nhận những hậu quả do hành động của chính mình. Người bị chọn làm vật tế thần, “scapegoat”, thường là một người hoặc một nhóm người thấp cổ bé miệng, dễ ăn hiếp và khinh miệt hơn. Hitler đổ thừa bác sĩ Eduard Bloch gốc Do Thái đã chữa trị dở khiến cho mẹ của Hitler là Klara chết. Từ ác cảm cá nhân, Hitler đổ lỗi dân Do Thái là một trong những nguyên nhân làm Đức thua trận năm 1918. Và Hitler đã giết 6 triệu người Do Thái trong Thế Chiến Thứ Hai như là những con dê tế thần. Dê tế thần có thể trong tất cả mọi giới: chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, thể thao. Adam đổ lỗi Eve cám dỗ; Eve đổ lỗi cho con rắn. Stalin đổ lỗi Trotsky.
Danh từ “scapegoating” dùng để chỉ sự đổ tội cho người khác thay vì chấp nhận những hậu quả do hành động của chính mình. Người bị chọn làm vật tế thần, “scapegoat”, thường là một người hoặc một nhóm người thấp cổ bé miệng, dễ ăn hiếp và khinh miệt hơn. Hitler đổ thừa bác sĩ Eduard Bloch gốc Do Thái đã chữa trị dở khiến cho mẹ của Hitler là Klara chết. Từ ác cảm cá nhân, Hitler đổ lỗi dân Do Thái là một trong những nguyên nhân làm Đức thua trận năm 1918. Và Hitler đã giết 6 triệu người Do Thái trong Thế Chiến Thứ Hai như là những con dê tế thần. Dê tế thần có thể trong tất cả mọi giới: chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, thể thao. Adam đổ lỗi Eve cám dỗ; Eve đổ lỗi cho con rắn. Stalin đổ lỗi Trotsky.
Trả lời phỏng vấn của đài BBC cuối năm 2013, nhà văn Vũ Thư Hiên cho rằng ông và ông Nguyễn Kiến Giang -nhà lý luận về chủ nghĩa Marx, cựu đảng viên lão thành mới qua đời- cùng nhiều người khác bị bắt và bị bỏ tù trong vụ án “Xét lại chống Đảng” trước đây chỉ là những con dê tế thần của một âm mưu trong nội bộ Đảng Cộng sản khi đó, mà theo ông là để hạ uy tín của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
“Scapegoat” còn là nạn nhân bị tập thể hoặc cấp trên đổ lỗi để gánh chịu trừng phạt. Vì muốn thoát hiểm an toàn, phủi tay tránh né trách nhiệm, biện minh cho hành động sai trái, tập thể hoặc cấp trên đó thường chọn người dưới quyền hay yếu thế làm vật hy sinh chịu tội thế cho mình. Đại úy Nguyễn Văn Nhung, sĩ quan tùy viên của trung tướng Dương Văn Minh, vâng lệnh nhóm đảo chánh bắn chết tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu ngày 1-11-1963 để rồi sau đó bị làm dê tế thần, bị quy tội, bị tra tấn chết nhưng phao gian là chết do tự tử. Ngày nay trong nước xảy ra không ít những trường hợp dê tế thần tương tự khi công an nặng tay khiến người tình nghi tử vong trong lúc thẩm vấn. Nguyễn Tấn Dũng đổ lỗi cho Phạm Thanh Bình đã làm tập đoàn Vinashin sập tiệm; Bình bị bắt giam, bị xử án 20 năm tù nên đã thắt cổ tự tử.
Giáo sư Ron Rolheiser người Canada, tác giả của hàng chục quyển sách thần học và triết học cho rằng Scapegoat còn có thể hiểu một cách bình thường hơn trong giao tiếp hàng ngày; đó là tạo đồng minh bằng cách nói xấu một người thứ ba. Hãy tưởng tượng trong một nhóm bạn, A và B tuy không thân thiện nhau lắm nhưng đều cùng không thích X. Thế là A và B kết thân để tạo một liên minh loại bỏ X ra khỏi vòng bạn bè. Trong trường hợp này, X trở thành con dê tế thần. Dê tế thần thường là những người vắng mặt, không được ưa: một ông xếp khó chịu, một bạn học khó tính, một đồng nghiệp khó ưa, v.v. Đó là đặc tính của con dê bị tế thần. Chúng ta xây dựng mối giao thiệp với nhau bằng cách đẩy căng thẳng giữa chúng ta qua người khác. Khi loại trừ người đó khỏi nhóm mình, chúng ta tạo ra được mối quan hệ mới, một liên minh mới, nhưng như thế, sự hòa hợp giữa chúng ta dựa vào điều mà chúng ta cùng nhau chống lại hơn là dựa vào những gì chúng ta hướng đến.
Tất cả mọi nhóm, cho đến khi đạt được một mức độ trưởng thành nhất định, đều làm như thế cả. Và khi đối diện với căng thẳng trong đời sống riêng của mình, chúng ta cũng làm như thế. Cách xử thế này hoạt động như sau: Một buổi sáng, chúng ta thức dậy và, vì vô số lý do, chúng ta cảm thấy rối bời, nặng trĩu do một đống tạp nhạp chán nản, lo lắng, giận dữ. Vậy chúng ta làm gì đây? Chúng ta tìm một ai đó để đổ lỗi. Luôn luôn chúng ta nhanh chóng chọn được người (trong gia đình, nơi làm việc, một chính trị gia, hay một giới chức tôn giáo) để trút căng thẳng vào người đó. Một người mà chúng ta xem là khó tính, ngu đần, sai lầm về chính trị, hủ bại về đạo đức, hay xấu xa về mặt tôn giáo, người đó sẽ sớm phải lãnh gánh nặng căng thẳng và phẫn uất của chúng ta.
Hơn nữa, chúng ta không chỉ đẩy căng thẳng về phía một ai đó, mà chúng ta còn luôn “sát tế” nỗi căm phẫn mà chúng ta đang cảm nhận, chúng ta sẽ đẩy căng thẳng và giận dữ của mình về phía người đó không chỉ vì người đó khác chúng ta hay chúng ta xem họ là khó tính, ngu đần, biếng nhác, nhưng chúng ta làm thế, đặc biệt là vì chúng ta cảm thấy mình vượt trội họ về mặt đạo đức, chúng ta đúng, còn họ sai, chúng ta tốt còn họ thì xấu. Như thế phẫn uất mà chúng ta nhắm vào người đó được xem là một phẫn uất thánh thiện và cần thiết vì danh Chúa, vì sự thật và sự thiện, cũng như tất cả những việc hành hình bằng đóng đinh, treo cổ, và rút phép thông công vậy.
Randy Old Goat
Randy Old Goat có nghĩa là dê cụ, ông già dê, thằng cha dê xồm… Một ông già dê không nhất thiết phải có râu dê, nhưng có thể hay cười be he theo kiễu kép hài Văn Chung hay Thanh Việt. Một người để râu dê không nhất thiết có tánh dê xồm. Đại tướng Nguyễn Khánh được biết suốt đời chỉ có một vợ và 6 người con. Lại nữa, không phải ai tuổi Mùi cũng có tính dê hay máu dê. Những người tuổi con vật khác khi dê là vẫn cứ dê như thường.
Randy Old Goat có nghĩa là dê cụ, ông già dê, thằng cha dê xồm… Một ông già dê không nhất thiết phải có râu dê, nhưng có thể hay cười be he theo kiễu kép hài Văn Chung hay Thanh Việt. Một người để râu dê không nhất thiết có tánh dê xồm. Đại tướng Nguyễn Khánh được biết suốt đời chỉ có một vợ và 6 người con. Lại nữa, không phải ai tuổi Mùi cũng có tính dê hay máu dê. Những người tuổi con vật khác khi dê là vẫn cứ dê như thường.
Chẳng biết do đâu mà tiếng kêu be he của con dê lại bị liên kết với tiếng cười của mấy ông già dê cứ thấy đàn bà con gái là để lộ thái độ ve vãn và cử chỉ hành vi sàm sỡ. Câu nói “Let go you randy old goat!” có nghĩa như “Buông tao ra, đồ dê già mắc dịch!” Trong văn hóa Việt nam, hình ảnh con dê thường bị nhìn dưới một khía cạnh châm biếm cười chê. Dê đực có khả năng truyền giống rất mạnh là lẽ tự nhiên chứ nó có muốn như vậy đâu. Người ta ví những ông có máu 35 có tánh hay ve vãn đàn bà con gái với dê là oan cho nó.
“Bươm bướm mà đậu cành bông.
Ðã dê con chị, lại bồng con em”
để chỉ các tay dê thứ dữ đó.
Tính dê xồm dĩ nhiên là xấu rồi, bị người đời coi khinh vì không theo khuôn phép thuần phong mỹ tục. Bởi vậy người ta mắng dê xồm bằng 2 câu thơ là “Phượng hoàng đậu nhánh sa kê, Ông thần vật mấy thằng dê cho rồi!” Cho dù ông thần làm việc ô-vơ-thai đốp-bồ-síp (overtime double shift) đi chăng nữa cũng không thể vật hết người dê. Thế là dê xồm vẫn đi đầy đường, từ trong sở làm ra tới quán bia ôm, kể cả trong chòm xóm. Thiên hạ tức quá rủa tiếp “Dê xồm ăn lá khổ qua. Ăn nhiều sâu rọm, chết cha dê xồm!”
- Cô gái xinh đẹp ơi, em làm việc ở bệnh viện này à?
– Dạ, đúng rồi anh!
– Thế công việc chính của em là gì?
– Dạ, em tắm rửa rồi thay quần áo cho bệnh nhân ạ.
– Nếu anh vào nằm viện thì em cũng làm cho anh như thế chứ?
– Dạ, lúc nào em cũng sẵn sàng ạ.
– Vậy, làm sao anh tìm gặp được em khi vào viện nhỉ?
– Anh cứ hỏi thăm “Cô Mai nhà xác” là ai cũng biết và chỉ cho anh ạ!
– Hả…!?!?
– Dạ, đúng rồi anh!
– Thế công việc chính của em là gì?
– Dạ, em tắm rửa rồi thay quần áo cho bệnh nhân ạ.
– Nếu anh vào nằm viện thì em cũng làm cho anh như thế chứ?
– Dạ, lúc nào em cũng sẵn sàng ạ.
– Vậy, làm sao anh tìm gặp được em khi vào viện nhỉ?
– Anh cứ hỏi thăm “Cô Mai nhà xác” là ai cũng biết và chỉ cho anh ạ!
– Hả…!?!?
Get someone’s goat: đây là thành ngữ về dê thường dùng nhất với nghĩa bóng là làm cho ai bực mình, khó chịu, nổi sùng. Ví dụ:
– “I’m sorry. I didn’t mean to get your goat.” (Tôi xin lỗi. Tôi không cố ý làm cho bạn bực mình).
– “It really gets my goat when inconsiderate people litter.” (Tôi thật khó chịu khi thấy người bất lịch sự xả rác).
– “His wife’s constant whining gets his goat.” (Sự lải nhải càu nhàu của vợ hắn làm cho hắn bực mình).
Chữ “goat” dùng trong thành ngữ này là một ẩn dụ chỉ trạng thái an bình. Khi goat đang với ta, ta an hòa và ổn định. Khi goat của ta bị lấy đi, ta nổi sùng cáu gắt. “Get someone’s goat” thường không do một hành vi vô tình mà là một sự cố ý chủ mưu chọc giận.
– “I’m sorry. I didn’t mean to get your goat.” (Tôi xin lỗi. Tôi không cố ý làm cho bạn bực mình).
– “It really gets my goat when inconsiderate people litter.” (Tôi thật khó chịu khi thấy người bất lịch sự xả rác).
– “His wife’s constant whining gets his goat.” (Sự lải nhải càu nhàu của vợ hắn làm cho hắn bực mình).
Chữ “goat” dùng trong thành ngữ này là một ẩn dụ chỉ trạng thái an bình. Khi goat đang với ta, ta an hòa và ổn định. Khi goat của ta bị lấy đi, ta nổi sùng cáu gắt. “Get someone’s goat” thường không do một hành vi vô tình mà là một sự cố ý chủ mưu chọc giận.
Ví dụ:
Tí: “Mầy mới chửi tao hả Tèo?”
Tèo: “Mầy nói gì kỳ vậy? Tao chửi mầy hồi nào?
Tí: “Mầy mới chửi tao tức thì. Tao nghe rõ ràng mà còn chối!”
Tèo: “Trời đất! Tự dưng sao mầy dựng chuyện kỳ cục vậy?”
Tí: “Bây giờ mầy nói tao nói láo nữa hả?”
Tèo chịu hết nổi nên tức quá bỏ đi và lẩm bẩm. Tí nói vói theo:
“Đó thấy chưa! Mầy chửi tao rõ ràng!”
“Tí has got Tèo’s goat.” Tí đã đoạt trạng thái an bình của Tèo, đã làm cho Tèo bực dọc khó chịu. Thế là có câu khuyên dành cho Tèo: “Don’t let him bother you, he’s just trying to get your goat.” (Đừng thèm để ý tới nó. Nó đang muốn chọc cho mầy nổi sùng đó).
Nguồn gốc của thành ngữ này vẫn còn là đề tài gây tranh cãi. Có người bảo nó bắt nguồn từ giới nuôi ngựa đua. Ngựa vốn là con vật dễ bị giao động, nổi chứng, trong khi con dê là con vật được biết rất trầm tĩnh nhu hòa. Vì vậy, trước ngày ngựa đua, người ta bỏ một con dê vào chuồng con ngựa sắp đua với mục đích sự hiện diện của con dê sẽ giúp làm dịu tính khí của con ngựa. Con ngựa trở nên gắn bó với con dê, một đứa bạn đồng hành hiền hậu và chịu đựng.
Thế là đối thủ trong cuộc đua tung đòn chơi bẩn, lén tìm cách bắt con dê đó đi. Sự vắng mặt của con dê có thể làm cho con ngựa đó cáu tính trở lại và sẽ trở chứng trong cuộc đua. Do đó khi một người than “Someone has got my goat” thì người đó ví mình như con ngựa đã mất dê, và mất điểm tựa ảnh hưởng nhu hòa.
Cách giải thích thứ nhì cho thành ngữ “Get someone’s goat” là có sự phát âm nhầm lẫn giữa chữ “goad” và chữ “goat”. Có thể thành ngữ đó phát sinh từ “Get your goad” dùng từ lâu bên Anh. “Goad” là một cây roi dài nhọn dùng để lùa gia súc. Ngày nay người ta thay thế món dụng cụ “goad” bằng “prod”.
Một giả thuyết khác cho rằng “goat” là tiếng lóng của tù nhân dùng vào đầu thế kỷ 20 để chỉ cơn giận.
Thành ngữ “to take the goat” có thể do dịch từ chữ Pháp “prendre la chèvre” với nghĩa lấy mất nguồn lợi. Đối với những nông dân nghèo, con dê của họ bị ăn cắp mất thì coi như họ mất nguồn cung cấp lương thực sữa và thịt dê. Tuy nhiên đây cũng chỉ là sự phỏng đoán diễn dịch mà thôi.
Một số thành ngữ châm ngôn khác
Để ám chỉ một người có mùi hôi cơ thể, người ta dùng thành ngữ
Để ám chỉ một người có mùi hôi cơ thể, người ta dùng thành ngữ
“He got a goat under his arms”(Hắn có nguyên một con dê dưới nách hắn), nhưng nó không thịnh hành cho lắm.
Put silk on a goat and it is still a goat: Dù có đắp lụa lên một con dê thì nó vẫn là dê.
It’s no use going to the goat’s house to look for wool: Đến nhà dê để tìm len cũng vô ích. Đến không đúng chỗ.
Don’t approach a goat from the front, a horse from the back, or a fool from any side: Đừng đến gần một con dê từ phía trước, một con ngựa từ phía sau, hoặc một kẻ ngốc từ bất kỳ phía nào. Các bạn biết tại sao rồi phải không. Con dê hay dùng sừng để húc; con ngựa hay dùng chân sau để đá; thằng ngốc thì chuyện gì nó cũng làm, chẳng biết đâu mà lường.
He who lets the goat be laid on his shoulders is soon after forced to carry the cow: Kẻ nào để yên cho người ta đặt một con dê lên vai thì sau đó thế nào cũng bị bắt cõng một con bò. Ý nghĩa câu này cũng tương tự như câu “Give him an inch and he will take a yard”, tương tự như câu “Được đàng chân, lân đàng đầu” của Việt Nam ta.
It doesn’t take a genius to spot a goat in a flock of sheep: Không cần phải là một thiên tài mới nhận ra một con dê trong một đàn cừu.
If you enter a goat stable, bleat; if you enter a water buffalo stable, bellow: Vào chuồng dê thì kêu be he; vào chuồng trâu thì kêu nghé ngọ. Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc.
Một số từ ngữ khác liên quan đến dê
Brush Goat: thuật ngữ dùng ở Mỹ để chỉ con dê đã nuôi trong nhiều năm ở mà không xác định thuộc giống loại nào. Những con dê này thường không cần được chăm sóc gì cả, chủ cứ thả rong chúng trong phạm vi nông trại cho chúng ăn dọn sạch bụi cỏ (brush).
Buck hay Billy: dê đực đã đủ trưởng thành về mặt sinh lý để giao phối và gây giống.
Buckling: dê đực còn trẻ chưa trưởng thành về mặt sinh lý để giao phối và gây giống.
Doe hay Nanny: dê cái đã đủ trưởng thành về mặt sinh lý để giao phối và gây giống.
Doeling: dê cái còn trẻ chưa đủ trưởng thành về mặt sinh lý để giao phối và gây giống.
Open: dê cái chưa mang thai.
Settled: dê cái đã mang thai.
Yearling: dê con từ một tới hai tuổi.
Kid: dê con dưới một tuổi.
Polled: dê không có sừng.
Chevon: Chevon là từ ngữ Pháp nghĩa là dê con, dùng để chỉ dê non còn bú hoặc mới vừa dứt sữa bị mang đi giết để lấy thịt.
Weaner hoặc Weanling: dê con dứt sữa.
Wether: dê đực đã thiến.
Brush Goat: thuật ngữ dùng ở Mỹ để chỉ con dê đã nuôi trong nhiều năm ở mà không xác định thuộc giống loại nào. Những con dê này thường không cần được chăm sóc gì cả, chủ cứ thả rong chúng trong phạm vi nông trại cho chúng ăn dọn sạch bụi cỏ (brush).
Buck hay Billy: dê đực đã đủ trưởng thành về mặt sinh lý để giao phối và gây giống.
Buckling: dê đực còn trẻ chưa trưởng thành về mặt sinh lý để giao phối và gây giống.
Doe hay Nanny: dê cái đã đủ trưởng thành về mặt sinh lý để giao phối và gây giống.
Doeling: dê cái còn trẻ chưa đủ trưởng thành về mặt sinh lý để giao phối và gây giống.
Open: dê cái chưa mang thai.
Settled: dê cái đã mang thai.
Yearling: dê con từ một tới hai tuổi.
Kid: dê con dưới một tuổi.
Polled: dê không có sừng.
Chevon: Chevon là từ ngữ Pháp nghĩa là dê con, dùng để chỉ dê non còn bú hoặc mới vừa dứt sữa bị mang đi giết để lấy thịt.
Weaner hoặc Weanling: dê con dứt sữa.
Wether: dê đực đã thiến.
Để kết thúc bài viết lan man này, người viết cầu mong quý bạn đọc năm Ất Mùi 2015 sống hiền lành thảnh thơi vô tư lự như dê (chưa chắc), biết hòa thuận nhường nhịn không như dê (cũng chưa chắc). Nếu có muốn cụng sừng nhau thì cũng trong tinh thần thể thao giao hữu thôi nha. Mời quý bạn đọc bài thơ
Hai con dê qua cầu.
Bắt qua sông một cây cầu rất hẹp
Có một lần hai dê nọ cùng qua
Ngược chiều nhau nên kẹt đứng giữa cầu
Một con bảo: “Mầy phải lùi lại đã”
Có một lần hai dê nọ cùng qua
Ngược chiều nhau nên kẹt đứng giữa cầu
Một con bảo: “Mầy phải lùi lại đã”
Con kia đáp: “Tại sao kỳ vậy hả?
Tôi bước lên cầu trước kia mà?”
- “Nhưng tao mạnh hơn mầy! Hãy tránh ra!”
>- “Tôi không tránh! Anh làm gì tôi chứ?”
Tôi bước lên cầu trước kia mà?”
- “Nhưng tao mạnh hơn mầy! Hãy tránh ra!”
>- “Tôi không tránh! Anh làm gì tôi chứ?”
- “Vậy mầy hãy cụng sừng đọ sức
Xem thằng nào ngán sợ thằng nào!”
- “Khoan! Nếu đứng đây ta lại đánh nhau
Chắc sẽ rớt xuống sông hết cả.
Xem thằng nào ngán sợ thằng nào!”
- “Khoan! Nếu đứng đây ta lại đánh nhau
Chắc sẽ rớt xuống sông hết cả.
Thôi thì tôi đề nghị như vầy nhá
Tôi nằm xuống cho anh bước qua.”
Nhường nhịn nhau một chút thôi mà
Nhưng nhờ vậy cả hai còn sống sót.
(phỏng dịch truyện răn đời “Two Goats”)
Tôi nằm xuống cho anh bước qua.”
Nhường nhịn nhau một chút thôi mà
Nhưng nhờ vậy cả hai còn sống sót.
(phỏng dịch truyện răn đời “Two Goats”)
Phan Hạnh.
*
CON NGỰA 2014 ĐI XA...
Con ngựa trong Anh ngữ
Phan Hạnh
Việt ngữ của chúng ta không có nhiều chữ khác nhau để gọi con ngựa, chỉ có chữ “ngựa” hoặc chữ “mã” gốc Hán Việt: ngựa con, ngựa già, ngựa đực, ngựa cái, ngựa rừng, ngựa rằn… Trong khi đó, Anh ngữ có rất nhiều chữ phân biệt để gọi ngựa: horse (nói chung), pony (ngựa nhỏ, ngựa con nói chung, thấp dưới 58 phân Anh), pinto (ngựa có hai độ màu lông đậm lợt khác nhau), dun (ngựa có sọc), mare (ngựa cái, bốn tuổi trở lên), stallion (ngựa đực, bốn tuổi trở lên), stud (ngựa nọc, chỉ để gieo giống), bronc hay bronco(ngựa chưa được huấn luyện), feral (ngựa trang trại thả về rừng hoặc tự bỏ trốn đi hoang), brumby (tên mà người Úc gọi một con ngựa feral), mustang (ngựa hoang Mỹ châu), foal (ngựa con còn bú sữa mẹ, nói chung), filly (ngựa cái con còn bú sữa mẹ), colt (ngựa đực con còn bú sữa mẹ), weanling (ngựa con mới dứt sữa và bắt đầu ăn cỏ), yearling (ngựa con từ một tới hai tuổi), zebra (ngựa rằn). Ngoài ra còn cả lô tên gọi khác cho ngựa tùy theo đặc tính màu sắc hay chủng loại.
Bị ngựa đá một lần nhớ đời sẽ dễ đưa đến bệnh sợ ngựa, một nỗi sợ về tâm lý, Anh ngữ gọi là hippophobiahoặc equinophobia, trái với sự và người yêu thích ngựa là hippophile hoặc equinophile. Con ngựa nào tỏ ra hung hăng dữ dằn bất trị (ngựa chứng) hay đá người, hay gây sự với ngựa khác thường bị chủ mang đi thiến và trở thành ngựa thiến (gelding). Trong các đơn vị kỵ binh trước thế chiến, ngoài trường hợp tử vong vì té ngựa còn có một số trường hợp bị chính con ngựa mình cỡi đá chết. Thuở nhỏ, tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ từng bị ngựa đá trúng mặt, nhưng người ta không thể quyết đoán có phải vì vậy mà nửa mặt bên trái của ông hơi bị lệch và biến dạng khiến cho ông bị mắt thấp mắt cao.
Từ lâu, tôi đã ngộ nhận chữ “equestrian” là người cỡi ngựa vì trong trí tôi đã quen nghĩ rằng “ian” là tiếp vĩ ngữ gốc La-tinh có nghĩa là người, giống như các chữ Canadian, musician, pedestrian, physician, technician, v.v.. Thật ra “equestrian” có nghĩa là sự cỡi ngựa (the horseback riding), do chữ “equine” (từ gốc La-tinh equus có nghĩa là con thú thuộc loài lừa ngựa nói chung), còn người cỡi ngựa đơn giản chỉ gọi là “horseman”. Từ đó có chữ “horsemanship” và chữ “equitation” là tài cỡi ngựa để phân biệt với chữ “equestrianism” là môn nghệ thuật cỡi ngựa.
Đúng, Equestria là tên của một vùng đất đai, một xứ sở, nhưng đó chỉ là tên của vương quốc giả tưởng của loài ngựa trong My Little Pony: Friendship Is Magic, một loạt phim hoạt hình truyền hình do Hasbro Studios ở Mỹ và studio DHX Media ở Canada sản xuất, ra mắt trình chiếu vào ngày 10 tháng 10 năm 2010. Trong vùng đất huyền diệu Equestria, nhân vật chính, công chúa Twinkle Sparkle, sống với nhóm bạn bè của cô là Applejack, Rainbow Dash, Pinkie Pie, Rarity, Fluttershy và Spike tại thị trấn Ponyville. Sống cùng nhau, họ, tất cả đều là ngựa được nhân cách hóa, tìm hiểu và khám phá về sự kỳ diệu của tình bạn. Hiểu theo kiểu của tôi Equestrian là người nước Equestria thì hỏng. Thế mới biết học tới chết cũng chưa đủ.
Bạn cũng biết, Binh Chủng Thiết Giáp gồm các đơn vị Kỵ Binh, mặc dù vai trò con ngựa đã được thay thế bằng những chiếc xe tăng tối tân, trong Anh ngữ vẫn gọi là Cavalry Corps. Chữ Cavalry xuất xứ từ chữcavalerie của Pháp, với các chữ có cùng gốc gác như cavale, cavaler, cheval, chevalier,chevaleresque… Hèn gì dân đi vũ trường gọi các cô gái nhảy là ca ve. Hèn chi các bà vợ ghen gọi các cô gái nhảy là ngựa.
Bây giờ xin mời các bạn xem xét qua một số thành ngữ, tục ngữ Anh thông dụng liên quan đến ngựa nhé.
Don’t change horses in midstream. Nghĩa đen: Đừng thay ngựa giữa dòng.
Nghĩa bóng: Đừng thay đổi kế hoạch nửa chừng. Thành ngữ này ngày nay rất phổ biến, chắc tại vì nó được tổng thống Abraham Lincoln dùng trong một bài diễn văn vào năm 1864 với ý nói không nên thay đổi nhân sự hay vị trí khi dự án đang thực hiện nửa chừng. Nếu bạn đã tốn công khó điều khiển một con ngựa đi tới giữa dòng sông một cách suôn sẻ rồi thì tốt hơn bạn đừng tính chuyện đổi ngựa khác vì điều đó quá rủi ro. Có người xem kế hoạch Hoa Kỳ thay thế tổng thống Ngô Đình Diệm là một ví dụ tiêu biểu cho sự thay ngựa giữa dòng, dẫn đến kết quả tai hại hỗn loạn về chính trị và làm suy yếu tiềm lực chống cộng của đất nước non trẻ VNCH.
Don’t look a gift horse in the mouth. Nghĩa đen của câu này là đừng khám răng của con ngựa người ta tặng cho mình. Như bạn biết, răng ngựa mọc dài thêm và nhô ra thêm theo tuổi tác. Xem răng một con ngựa, người ta có thể đoán được tuổi của nó. Theo bản năng tự nhiên của con người (nhất là trẻ con chưa ý thức nhiều về phép lịch sự trong giao tế), mỗi khi nhận được một món quà, người nhận thường háo hức săm soi món quà đó ngay, đôi khi không giấu được sự thất vọng khi thấy món quà không đúng như ý muốn. Theo nghĩa bóng, câu châm ngôn này hàm ý rằng đừng nên quá chú trọng đến phẩm chất của một món quà tặng, nhất là trước mặt người tặng quà. Nên chấp nhận một món quà với lòng biết ơn hơn là chỉ trích món quà không hoàn hảo.
Tương tự với nghĩa trên, ta có thành ngữ Straight from the horse’s mouth, nghĩa đen là thẳng từ miệng con ngựa. Thành ngữ này có nghĩa bóng là tin tức rất đáng tin cậy vì phát xuất từ nguồn gốc nguyên thủy. Sở dĩ người Mỹ có câu nói này là vì ngày xưa khi ngựa còn là phương tiện chuyên chở chính, người ta mua sắm ngựa như ngày nay mua xe hơi. Muốn biết con ngựa được bao nhiêu tuổi, họ phải nhìn vào hàm răng của nó thì mới biết được. Sau này, thành ngữ Straight from the horse's mouth được giới đánh cá ngựa dùng để chỉ những tin tức sốt dẻo cho biết con ngựa nào có ưu thế hơn và sẽ thắng.
You can lead a horse to water but you can’t make him drink. Nghĩa đen: Bạn có thể dắt con ngựa tới chỗ để nước nhưng bạn không thể khiến cho nó uống. Nghĩa bóng: Câu tục ngữ này có từ thế kỷ thứ 16 ở Anh quốc, nghĩa tương đối đơn giản, với ý nói rằng bạn có thể tạo cơ hội cho ai đó nhưng bạn không thể buộc họ phải nắm lấy cơ hội đó. Nói một cách khác, bạn không thể bắt ai đó làm điều gì đó, trừ khi họ đã sẵn sàng muốn làm. Bạn có thể cho một người nào đó lời khuyên tốt nhưng bạn không thể làm cho họ tuân hành áp dụng. Câu tục ngữ này xuất phát từ sự kiện thực tế là ngựa thường ít khi chịu uống nước nơi chưa quen, ngay cả khi chúng đang khát và cần uống.
Charley horse. Tiếng lóng, có nghĩa là vọp bẻ, chuột rút.
A horse of different color. Nghĩa đen: Một con ngựa khác màu. Nghĩa bóng của thành ngữ này là một cái gì đó có thể hoàn toàn tách biệt với những gì mà người ta dự kiến hay tiên liệu, một sự bất ngờ trái với sự mong đợi và gây thất vọng.
Một con ngựa khác màu cũng dùng để chỉ trường hợp một người hay một vật nào đó không phù hợp hay thích ứng với nguyên nhóm. Thành ngữ này bắt nguồn từ lời đối thoại trong màn hai của vở kịch Twelfth Night của William Shakespeare.
Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ John Adams cũng dùng biểu tượng ngựa khác màu để nói về lòng trung thành và sự chia rẽ. Ông gọi một nhóm người chống đối là những con ngựa khác màu.
Every horse thinks its own pack heaviest. Nghĩa đen:Mỗi con ngựa đều nghĩ rằng trọng tải trên lưng mình là nặng nhất. Nghĩa bóng: Theo tâm lý và lẽ thường tình, người ta ai ai cũng chỉ nghĩ đến mình mà không quan tâm đến người khác, hay phàn nàn rằng mình là người phải lãnh phần việc nặng nhọc hơn, số phận của mình kém may mắn hơn mọi người khác. Thật ra ai ai cũng có nỗi khó khăn riêng, nỗi buồn riêng, khó có thể so sánh được. Người khác cũng phải chịu gánh nặng của công việc và nỗi lo nghĩ như nhau.
A one-horse race. Nghĩa đen: Cuộc đua một ngựa. Nghĩa bóng: Một cuộc thi mà trong đó, ngay từ lúc nhập cuộc, một phe ứng thí có khả năng vượt trội xa hơn nhiều so với các đối thủ khác, và rõ ràng có cơ may để giành chiến thắng.
Don’t back the wrong horse. Nghĩa đen: Đừng theo con ngựa dở. Nghĩa bóng: Đừng nhầm ủng hộ, hỗ trợ một ứng cử viên dở vì điều đó chắc chắn sẽ đưa đến thất bại.
Don’t beat a dead horse. Nghĩa đen: Đừng đánh một con ngựa đã chết. Khi một con ngựa chết rồi thì dù người chủ có đánh đập nó, nó cũng không thể đứng dậy đi được nữa. Nghĩa bóng: Đừng cố gắng vô ích trước một chuyện đã rồi.
Don’t put the cart before the horse. Nghĩ đen: Đừng đặt chiếc xe trước con ngựa. (Tiếng Việt có câu Đừng đặt cái cày trước con trâu). Nghĩa bóng: Đừng làm chuyện ngược đời vô lý. Theo lẽ tự nhiên, con ngựa kéo chiếc xe nên con ngựa phải ở trước chiếc xe. Thế giới này có trật tự riêng của nó. Tất cả mọi sự vật, sự việc cũng có trật tự trước sau. Ta không nên hấp tấp, vội vã đốt cháy giai đoạn mà đảo lộn các bước theo đúng trình tự vốn có theo quy luật. Trong tiếng Việt có câu tục ngữ "Đừng cầm đèn chạy trước ô tô" mang ý nghĩa tương tự. Tốt nhất ta nên tuân thủ đúng các trật tự trong cuộc sống. Câu này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1589 trong quyển sách The Arte of English Poesie của George Puttenham. Có lẽ tác giả đã dịch ra từ một câu tục ngữ cổ Hy Lạp.
Don’t spare the horses. Nghĩa đen: Đừng dành thì giờ lo cho mấy con ngựa. Nghĩa bóng: Ý câu này muốn nói là đừng kể gì đến phương tiện mà hãy chú tâm vào mục đích chính (cứu cánh).
Nguồn gốc câu này có từ thời Nữ hoàng Victoria trị vì nước Anh vào hậu bán thế kỷ thứ 19. Sự tích kể rằng Nữ hoàng Victoria có người phu xe ngựa tên James Darling. Theo truyền thống vương giả thượng lưu, đáng lẽ Nữ hoàng gọi thần dân bằng họ của người đó. Nhưng “Darling” , họ của “tài xế riêng” của bà, lại cũng có nghĩa là “cưng yêu quí”, nếu bà xưng hô như thế e có vẻ không phù hợp.
Vì thế, bất đắc dĩ Nữ hoàng Victoria đành phải gọi người mã phu bắng tên James, một cách xưng hô thân mật của dân giả.
Lần đó sau một chuyến du hành bằng xe lửa hoàng gia, bà trở về London. Vừa đến ga Paddington, bà nôn nóng muốn về “nhà” là cung điện Buckingham. Thấy “bác tài” cứ nhẩn nha cẩn thận xem xét lại mấy con ngựa, bà thốt câu ra lệnh: “Home James! And don’t spare the horses!” (Về nhà ngay James! Đừng màng tới mấy con ngựa!) Và câu nói đó đã “phi nước đại” đi vào lịch sử.
To Be on Your High Horse. Nghĩa đen: Ngồi cao trên lưng ngựa. Thành ngữ này được dùng từ thời thế kỷ thứ 14 ở Âu Châu, khi giới thượng lưu quyền quý thường cỡi những con ngựa cao nhất mà họ có thể mua được để chứng tỏ là họ quan trọng hơn giới thường dân. Nghĩa bóng: Ngày nay, người Mỹ dùng thành ngữ To Be on Your High Horse để chỉ một người tự cho là mình quan trọng cho nên coi thường người chung quanh.
“Get off your high horse.” Nghĩa đen: “Hãy xuống ngựa đi.” Nghĩa bóng: “Đừng kiêu ngạo nữa.” Một khi đã xuống ngựa, chưa chắc người đó cao hơn về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thái độ của kẻ kiêu ngạo là luôn nghĩ rằng mình ở vị trí cao trọng hơn người khác, đối xử với người khác như thể họ thấp bé hơn mình. Thành ngữ này xuất phát từ thời xưa khi tầng lớp thượng lưu thường cỡi ngựa. Họ có khuynh hướng hành động ngạo mạn của cấp trên khi giao tiếp với một người bình thường.
“Hold your horses!” Nghĩa đen: “Ngừng ngựa của bạn lại!” Nghĩa bóng: Hãy tạm giữ yên vị trí tại chỗ. Câu này có lẽ bắt nguồn từ chiến trận, khi vị chỉ huy ra lệnh cho binh sĩ của mình hãy bình tĩnh, kìm cương ngựa lại để đợi lệnh mới. Ngày nay, thành ngữ này trở nên thông dụng hơn và được dùng trong mọi trường hợp và có nghĩa là “đừng vội, hãy bình tĩnh, hãy kiên nhẫn chờ thời cơ thuận tiện rồi hãy hành động”.
A dark horse. Nghĩa đen: Một con ngựa đen. Nghĩa bóng: Một nhân vật mới lạ như từ trong bóng tối chui ra, chưa ai biết. Từ ngữ dark horse xuất xứ từ giới đua ngựa cách đây hơn 150 năm để chỉ một con ngựa đua mà không ai biết đến thành tích gì của nó cả. Ngày nay, nó được dùng để chỉ một ứng cử viên mà đa số cử tri chưa nghe nói tới bao giờ. Phần đông những ứng cử viên như vậy thường thua xa trong các cuộc tranh cử, nhưng đôi khi họ cũng làm cho các chuyên gia chính trị phải ngạc nhiên khi họ thắng cử, tạo nên trường hợp mà giới trường đua gọi là ngựa về ngược.
Horse sense. Nghĩa đen: Giác quan của ngựa. Nghĩa bóng: Khả năng tốt khi nhận xét, phán đoán và quyết định một chuyện gì.
Horses for courses. Nghĩa đen: Mỗi con ngựa quen đường đi nước bước của nó. Có con quen đường đất bằng phẳng, có con quen đường rừng hay đường núi hiểm trở. Nghĩa bóng: Mỗi người có một khả năng chuyên môn riêng, không ai giống ai, nên quan trọng là phải dùng đúng người đúng khả năng.
If two ride on a horse, one must ride behind. Nghĩa đen: Nếu hai người cỡi một con ngựa thì một người phải ngồi đàng sau. Nghĩa bóng: Khi hai người cùng chung với nhau làm một việc thì phải có một người chính (cầm đầu, chỉ huy) và một người phụ thì công việc mới êm xuôi.
If wishes were horses, then beggars would ride. Nghĩa đen: Nếu mọi điều ước là có được ngựa thì ngay cả ăn mày cũng sẽ có ngựa để cỡi. Nghĩa bóng: Ước muốn viễn vong mãi mãi cũng chỉ là ước muốn, vì nếu như mọi ước muốn đều trở thành sự thật thì ngay cả một người chẳng cần làm gì hết cũng sẽ có đủ mọi thứ để mà thụ hưởng. Nếu, giá như, ước gì… tất cả mọi giả định đều vô ích.
A nod is as good as a wink (to a blind horse). Nghĩa đen: Một cái gật đầu cũng tốt như một cái nháy mắt (đối với một con ngựa mù). Nghĩa bóng của A nod is as good as a wink: Ý nói chỉ cần một sự ra hiệu vắn tắt ngắn gọn cũng đủ cho người khác hiểu mà không cần phải giải thích cặn kẽ dài dòng. Khi câu này có thêm “to a blind horse” thì nó có nghĩa là: đối với một người kém hiểu biết chuyên môn, dùng từ ngữ đơn giản thường cũng đủ thay vì tốn công giảng giải vòng vo
This is a one-horse town. Nghĩa đen: Đây là thị trấn chỉ có một con ngựa. Nghĩa bóng muốn chỉ đây là một nơi chốn nhỏ ít ai biết đến, không quan trọng.
Thành ngữ này, đầu tiên được ghi vào năm 1857, vì thuở đó có những thị trấn nhỏ chỉ cần một con ngựa duy nhất cũng đủ cho nhu cầu vận chuyển.
Play the ponies. Nghĩa đen: Chơi đùa với ngựa con. Nghĩa bóng: Đây là một câu tiếng lóng của dân đi đánh cá ngựa khi họ tránh dùng “Play the horses” vì không muốn cho người ngoài cuộc biết.
Put a horse out to pasture. Nghĩa đen: Đưa một con ngựa ra đồng cỏ. Khi một con ngựa yếu sức vì tuổi già hay bệnh tật mất khả năng làm việc, chủ thường không dùng nó nữa và thả nó ra đồng suốt ngày nhai cỏ. Nghĩa bóng: Đặt ai đó ra khỏi môi trường hoạt động, cho người đó ngồi chơi xơi nước, với lý do người đó không còn đủ khả năng hoặc không còn thích hợp.
Strong as a horse. Câu ví von dùng để chỉ một người có sức mạnh: mạnh như trâu, mạnh như cọp, mạnh như voi…
Get on one’s hobby horse. Nghĩa đen: Làm bộ như đang cỡi ngựa. Bạn có xem hát bộ bao giờ chưa? Đào kép hát bộ thường kẹp một cây chổi lông gà dưới háng rồi nhún nhẩy trên sàn sân khấu như là đang cỡi ngựa. Hobby horse là chữ để gọi bất cứ vật gì giả làm con ngựa. Theo nghĩa bóng, nếu một người nào đó cỡi hobby horse của họ tức là họ đang ba hoa chích chòe nói về một chủ đề mà họ cho là thú vị và quan trọng, và họ cứ thao thao bất cứ lúc nào mà họ có thể, ngay cả khi người khác không quan tâm để ý và không muốn nghe.
Work horse. Nghĩa đen: ngựa làm việc. Nghĩa bóng mô tả một cá nhân làm việc chăm chỉ, đặc biệt là khi so sánh với những người khác. Đôi khi chữ work horse cũng được dùng để mô tả một người chỉ cắm cúi làm việc hùng hục thật chăm chỉ nhưng không có năng khiếu suy nghĩ phán đoán.
Trước đây chữ này được dùng để mô tả một con ngựa chủ yếu cho các việc nặng (chẳng hạn như một con ngựa kéo cày) chứ không phải được dùng trong các hoạt động đòi hỏi tay nghề cao hơn nhưng đỡ vất vả hơn, chẳng hạn như để cho chủ cỡi hoặc đua xe.
Dog and pony show. Nghĩa đen: Sô trình diễn chó và ngựa con. Nghĩa bóng: Quảng cáo rầm rộ nhưng thực chất nội dung không có gì quá đặc biệt. Ví dụ, 'Cuộc họp được cho là để mô tả một chiến lược bán hàng mới nhưng thực sự chỉ là cách tiếp thị cũ. Đúng là một màn trình diễn chó và ngựa con.’ Thuật ngữ này bắt đầu từ những năm 1800, khi những đoàn xiếc lưu diễn khá phổ biến. Một số đoàn xiếc nhỏ không thể có đủ khả năng sở hữu các động vật kỳ lạ hoặc thuê mướn các biểu diễn viên tài ba, vì vậy họ cung cấp các màn trình diễn chỉ có chó và ngựa con. Trường hợp như vậy thường gây thất vọng cho khán giả địa phương vốn mong đợi cái gì hào hứng thú vị hơn như quảng cáo.
Old war horse. Con chiến mã già. Nghĩa bóng thành ngữ này chỉ một người từng trải kinh nghiệm chiến tranh, một chiến binh về già, hay cũng có thể dùng để chỉ một người già dặn dạn dày kinh nghiệm trong bất cứ lãnh vực nào khác, như chính trị, tài chánh chẳng hạn.
Trojan Horse. Ngựa thành Troy. Nghĩa bóng chỉ một cái gì đó nguy hiểm được che đậy bên trong một cái gì đó trông an toàn hoặc có lợi. Nguồn gốc của thành ngữ này nói về cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và Troy giữa thế kỷ 13 trước Công nguyên, khi người Hy Lạp xây dựng một con ngựa gỗ lớn và để lại bên ngoài cổng thành người Troy như một món quà tặng. Tuy nhiên, người Hy Lạp đã giấu những người lính trong con ngựa gỗ, vì vậy khi người Troy (Trojan) kéo con ngựa quà vào thành của họ, toán quân “biệt kích” núp trong thân ngựa rỗng đợi khi đêm xuống đã giết lính gác và mở cửa thành cho quân đội Hy Lạp tràn vào tấn công và chiếm được thành Troy.
Đối với người dùng Internet (cư dân mạng), Trojan là tên của một loại virus, mầm độc hại được ẩn giấu bên trong các nhu liệu ứng dụng hữu ích, vì vậy khi người nào tải nhu liệu này về máy tính của họ, virus Trojan sẽ xâm nhập và truy cập vào dữ liệu của máy tính.
Để kết thúc bài dông dài này, người viết xin liệt kê một số sự kiện về ngựa sau đây.
- Ngựa có ruột non bình thường dài khoảng 75 feet, ruột già bình thường dài khoảng 12 feet.
- Ngựa sản xuất trung bình 12 lít nước bọt mỗi ngày để giúp cho sự tiêu hoá cỏ khô được dễ dàng.
- Ngựa không thể thở bằng miệng và không thể nôn mửa.
- Ngựa chạy có thể đạt đến tốc độ tối đa là khoảng 45 mph (70 km/giờ), tốc độ đi trung bình vào khoảng ba, bốn dặm một giờ.
- Ngựa có đôi mắt lớn nhất so với bất kỳ động vật nào.
- Ngựa và người là hai loài động vật duy nhất có thể đổ mồ hôi qua da để làm mát.
- Ngựa tiêu thụ một lít (0.25 gallon) dưỡng khí một phút trong khi đi bộ. Nhưng khi phi nước đại trong một cuộc chạy đua, ngựa thở dồn dập mỗi hơi một bước chạy, tiêu thụ gần 60 lít (15 gallon) oxy mỗi phút.
- Ngựa có kích thước thân thể trung bình chứa khoảng 50 pint máu (28 lít) lưu thông qua hệ thống tuần hoàn ở chu kỳ 40 giây.
- Ngựa tốn hao nhiều năng lượng khi nằm hơn là khi đứng.
- Ngựa có bộ phận cơ thể đặc biệt ở chân cho phép chúng ngủ trong khi đứng mà không ngã.
- Ngựa tốn hao năng lượng khi bơi nhiều hơn khi chạy.
- Ngựa có lông có mô hình xoắn ốc độc đáo như vân tay của người, một đặc điểm để xác định giống loại.
- Ngựa Camargue (tên một vùng đất thấp và đầm lầy có sông Rhone chảy qua thuộc miền nam nước Pháp) có màu đen khi mới sinh nhưng lông đổi thành trắng khi ngựa trưởng thành.
- Ngựa có thể diễn đạt cảm xúc bằng tai, mũi, mắt để biểu lộ tâm trạng. Chẳng hạn khi ngựa phình mũi, dựng tai là lúc nó bực giận khó chịu đấy!
Cười chuyện ngựa:
1.
Một cô gái tóc vàng quyết định thử cỡi ngựa, mặc dù trước đó cô chưa bao giờ học cỡi ngựa và cũng chẳng có kinh nghiệm nào. Cô tự leo lên lưng ngựa mà chẳng cần ai giúp và con ngựa ngay lập tức chuyển động. Nó giữ tốc độ ổn định và nhịp nhàng, nhưng cô gái tóc vàng bắt đầu bị tuột từ từ khỏi yên ngựa.
Hoảng hốt, cô chụp lấy bờm ngựa, nhưng dường như không thể nắm vững. Cô cố gắng choàng tay quanh cổ của con ngựa, nhưng rồi cô cũng bị tuột xuống bên hông con ngựa. Con ngựa vẫn tiếp tục phi nước đại, dường như chẳng đoái hoài gì đến người cưỡi nó đang gặp trở ngại.
Sau cùng, cô buông tay ra và nhảy ra khỏi con ngựa để mong đáp xuống nơi an toàn. Thật không may, chân của cô đã bị vướng vào bàn đạp, thế là cô chỉ còn cách cầu may cho mình khỏi bị móng ngựa đạp trúng, trong khi cái đầu của cô chạm mặt đất liên tục. Cô sợ hãi và tuyệt vọng đến gần như bất tỉnh.
Nhưng may cho vận số của cô, người quản lý của tiệm Walmart đã nhìn thấy chuyện gì đang xảy ra nên tắt điện. Và con ngựa máy tức khắc dừng lại.
2.
Một ngày nọ, một người đàn ông đi qua một trang trại và nhìn thấy một con ngựa đẹp. Muốn mua con ngựa đó, ông ta bèn nói với người nông dân:
- "Tôi thấy con ngựa của ông trông đẹp quá nên tôi thích và muốn mua. Vậy nếu tôi trả cho ông 500 đồng, ông có chịu bán không?"
Người nông dân đáp:
- “Con ngựa trông không tốt như ông nghĩ đâu. Vã lại nó không phải để bán.”
Người khách vẫn nài nĩ:
- "Tôi lại thấy nó trông đẹp đấy chứ. Tôi sẽ trả cho ông một ngàn đồng.”
- "Tôi đã bảo nó không nhìn tốt như ông nghĩ đâu. Nhưng nếu ông muốn mua nó quá thì tôi bán cho ông đó.”
Ngày hôm sau, người đàn ông quay trở lại với vẻ giận dữ. Ông đến trước mặt người nông dân và la lên:
- "Anh bán cho tôi một con ngựa mù. Anh lừa tôi!"
Người nông dân bình tĩnh trả lời:
- "Thì tôi đã nói với ông là nó không nhìn tốt như ông nghĩ đâu, đúng không?"
Phan Hạnh. Giáp Ngọ 2014.
Xe ngựa Mỹ Tho
__._,_.___
__._,_.___
Nhận xét
Đăng nhận xét